Trang chủ » Điều » Văn Hóa Việt Nam |
Nguyễn Phước Tương
Con rồng Trong văn hóa Việt Nam
Con
Rồng, từ Hán – Việt là Long,
là một con vật huyền thoại, có hình dáng rất đặc biệt: đầu kỳ lân có bờm, sừng
và râu, mắt lồi, mình dài như rắn, thân phủ vảy như cá, đuôi xoáy tròn, bốn
chân có móng như chim ưng, biết bay trên không. Như vậy, hình dáng Con Rồng
truyền thống của Việt Cũng
cần phân biệt giữa Con Rồng và các con vật huyền thoại khác như Con Giao và Con
Cù. Có những quy định rõ ràng cho các nghệ nhân trong chế tác hình dáng Con
Giao như sau: đầu không có bờm, không có sừng, không có râu, thân nhẵn không có
vảy, cổ mảnh, không có chân, không biết bay. Dù sao, nó là Con Rồng hạng thấp,
nên đôi khi được gọi là Giao
Long. Con Cù mà người Trung Hoa gọi là Câu
Long, người Nhật bản gọi là Mamazu,
có hình dạng tương tự như Con Giao nhưng sống ở dưới biển mà dân gian cho là nó
gây ra động đất và sóng thần. Con Rồng và biểu tượng cung đình và dân gian Dưới
thời đại phong kiến Việt Ở
nước ta, Con Rồng biểu tượng cho Hoàng đế làCon Rồng có chân 5 ngón, trong đó ngón cuối cùng nằm
đối diện với các ngón khác, vì vậy Con Rồng trong cung điện là Con Rồng có chân
5 ngón. Điều này trở thành một quy định nghiêm khắc của Triều đình, nhất là dưới
thời Nhà Nguyễn, nếu ai vi phạm sẽ bị khép vào tội khi quân. Vì vậy, trong các
công trình kiến trúc dân gian như đình, chùa... người ta chỉ có thể đắp hay chạm
những Con Rồng có chân 4 ngón như đã thấy. Vua
là Con Rồng và hoàng hậu là Chim Phượng nên gọi là Long Phụng. Bởi vậy, trong cung
trên các mành trúc của các buồng the của hoàng hậu và các phi tần đều vẽ hình
Chim Phượng trong khi đó các mành trúc của cung vua và phòng ở của các hoàng tử
đều vẽ hình Con Rồng. Ở trong cung, hoàng hậu và các phi tần thường đội mũ hình
Chim Phượng. Cũng
vì lẽ vua là Con Rồng, nên dung mạo vua gọi làlong nhan (mặt rồng), thân thể vua gọi là long thể (thân rồng), ghế ngồi của vua gọi là ngai rồng, giường nằm của vua nằm
gọi là long sàng, xe của
vua gọi là long xa hay long giá, kiệu có mui của vua là long đình, thuyền của vua là long châu hay long
chu, áo dài có thêu hình rồng của vua gọi làlong bào, áo đại triều
có thêu hình rồng của vua gọi là long
cổn, sân các đình thần chầu vua gọi là long
đình (sân rồng) nơi thế tử sống
trước khi lên ngôi vua gọi là long
tiềm (rồng giấu mình), khi vua
lên ngôi (như Rồng bay lên trời) gọi làlong phi, khi vua băng hà (cỡi Rồng
về chầu Thiên Hoàng), gọi là long
ngự thượng tân.v.v... Vì
vua là Con Rồng, nên các chiếu chỉ vua ban được quan Nội các Triều đình viết
trên loại giấy riêng có in hình rồng uốn mình trong mây cuộn, gọi là giấy long vân hay giấy
long ẩn vân. Trong
văn hoá dân gian, Con Rồng là biểu tượng của một con vật linh thiêng nhất trong
bốn con vật linh thiêng, gọi là tứ
linh, đó là Long, Ly, Quy,
Phụng, tức là rồng, lân, rùa, phượng. Những con vật này được thờ và là đối
tượng của nghệ thuật tạo hình và trang trí dân gian trong các công trình tín
ngưỡng. Trong
quan hệ gia đình thời phong kiến, Con
Rồng là biểu tượng của nam giới,
của người chồng, trong khi đóChim Phượng là biểu tượng của nữ giới, của người vợ.
Vì vậy, trên một bức trướng mừng đám cưới, người ta thêu một đôi Rồng – Phượng cùng bay với nhau. Đó là môtýpLong
– Phụng với ý nghĩa chúc phúc
và điều đó được tô đậm thêm nếu kèm theo hai chữ hán Song Hỷ với ý nghĩa "Long Phụng sinh trường”. Con Rồng và truyền thuyết dân gian Người
Việt Cho
đến nay, nhân dân xứ Quảng vẫn lưu truyền về truyền thuyết dân gian "Bà Chúa
tàm tang”. Truyền thuyết kể lại rằng một đêm trăng, Chúa Sãi Nguyễn Phúc
Nguyên cùng thế tử Nguyễn Phúc Lan dạo thuyền rồng trên sông Thu Bồn, khi đến
ghềnh Điện Châu thì nghe từ nương dâu ven bờ tiếng hát rất hay của một cô gái
đang hái dâu. Cô gái hát rằng: Thiếp nghe Chúa ngự thuyền rồng Thiếp thương phận thiếp
má hồng nắng mưa... Ngừng một lát, cô gái lại hát tiếp: Thuyền rồng mái đẩy đi đâu Để cho thiếp đứng hái dâu
một mình...! Được
phép phụ vương, hoàng tử Nguyễn Phúc Lan cho thuyền rồng men theo triền sông đi
tìm tiếng hát. Khi lên bờ, bên bóng dâu xanh thắm nhuộm ánh trăng vàng, chàng
trai vương bá đem lòng say đắm người thục nữ kiều diễm vừa độ trăng tròn rất mực
đôn hậu là Đoàn Thị Ngọc. Hình như cuộc kỳ ngộ này được sắp xếp từ trước bởi
bàn tay của Ông Tơ Bà Nguyệt xe duyên và hai năm sau họ kết duyên trăm năm. Sau
khi Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên mất, thế tử Nguyễn Phúc Lan trở thành Chúa Thượng
thì bà Đoàn Thị Ngọc trở thành Đoàn Quý Phi, có công khuyến khích nghề trồng
dâu nuôi tằm dệt lụa, nên được nhân dân xứ Quảng tôn vinh là Bà Chúa Tàm tang. Con
Rồng cũng gắn liền với sự lập nghiệp của Nhà Lý. Truyền thuyết kể lại rằng khi
vua Lý Thái Tổ - Lý Công Uẩn với tầm nhìn chiến lược, năm 1010 đã quyết định dời
đô từ Hoa Lư về Đại La thì có một Con Rồng vàng xuất hiện trên bầu trời kinh đô
mới. Nhà vua cho đó là một điềm lành và đặt tên cho kinh đô mới là Thăng Long, tức Hà Nội ngày
nay, mở ra một thời kỳ phát triển huy hoàng của kinh đô quốc gia Đại Việt từ thế
kỷ XI đến XVIII. Và đến năm 2010, nước ta đã tổ chức một cách long trọng Đại lễ
1.000 năm Thăng Long – Hà Nội. Khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội, có
Núi Nùng nên được gọi là Long
Đỗ, nghĩa là Rốn Rồng, trong năm 2011 đã được UNESCO công nhận là Di sản Thế giới. Ở
Cửa Hàn, sau chiến thắng của vua Lê Thánh Tông 1471, đã ra đời Xứ Giếng Bộng với
làng Nại Hiên. Làng này đã dựng một chùa thờ Phật mà dân trong vùng thường thấy
Đức Phật xuất hiện ở đây dưới dạng đầu Con Rồng. Vì vậy, vua Lê Thần Tông năm
1657 đã sắc phong đặt tên cho chùa là Long
Thủ Tự (Chùa Long Thủ) nghĩa
là Chùa Đầu Rồng. Trong cuộc nội chiến Nhà Nguyễn – Nhà Tây Sơn, chùa này bị hư
hại nặng. Năm 1825, vua Minh Mạng đã cấp một số bạc để sửa lại chùa. Đến năm
1935, vua Bảo Đạo đã đặt tên mới cho chùa là An
Long Tự (Chùa An Long) còn tồn
tại đến nay. Con Rồng và nghệ thuật cung đình và dân gian Con
Rồng là một môtýp của nghệ thuật trang trí cung đình và dân gian. Hình Con Rồng
có mặt trên nóc nhà, các thân cột, xà dọc, cánh cửa, bậc tam cấp, bình phong của
các cung điện, lăng tẩm, đền chùa, miếu mạo, từ đường.v.v... Hình Con Rồng còn
thấy trên mũi thuyền, chân sập, tráp gỗ, đốc kiếm, mõ nhà sư, trên các thảm
thêu, đồ sành sứ... Nó
được thể hiện ở mọi tư thế: bay lượn, phủ phục, đứng yên, uốn mình dưới nhiều
mô týp trang trí đa dạng với những chất liệu khác nhau như gỗ, đá, sành sứ, vôi
vữa, kim loại. Một
đề tài nghệ thuật trang trí thường thấy, thể hiện trên rìa các hoành phi, thân
sập, lưng ghế, gọi là "Lưỡng long triều nguyệt” chạm khắc hình hai Con Rồng
với mình uốn lượn và đầu cùng quay về một mặt nguyệt, có nghĩa hai con rồng
đang chầu mặt trăng. Một
đề tài nghệ thuật trang trí khác gần gũi với đề tài nói trên, thường được chạm
khắc trên các phù điêu, đồ dùng bằng gỗ như sập, ghế hay thêu trên các tấm lụa
với hình hai Con Rồng mình uốn lượn và đầu cùng quay về một khối hình cầu, gọi
là "Lưỡng long tranh châu”, có nghĩa hai Con Rồng đang tranh nhau một
hòn ngọc quý. Môtýp nghệ thuật trang trí này có khi được gọi là "Lưỡng long
hí cầu”, có nghĩa là hai Con Rồng cùng đùa với một quả cầu. Một
đề tài nghệ thuật trang trí khác bắt nguồn từ "Lưỡng long triều nguyệt”
nói trên, nhưng ở đây hai Con Rồng chầu một quả cầu lửa. Quả cầu lửa gồm một
đĩa hình tròn là mặt nhật được bao quanh bởi một vòng lửa cháy nằm trên một tầng
mây. Môtýp này thường làm bằng vôi vữa và đắp trên nóc đền chùa, có ý nghĩa cầu
đảo: ở đây hai Con Rồng là hai Thuỷ
Long Vương, thần gây mưa và quả cầu lửa tượng trưng cho sấm sét tạo ra mưa
chống hạn cho nông nghiệp được mùa. Một
đề tài nghệ thuật trang trí cung đình và dân gian khác là hoạt cảnh kết hợp giữa
một Con Rồng đang bay trên các cuộn mây và một Con Cá gáy đang bơi giữa các gợn
sóng: Con Rồng thì phun mưa xuống còn Cá Chép thì phun nước lên cho nhau. Đó là
môtýp "Ngư long hí thuỷ ”,
cảnh Rồng và Cá đùa nhau với nước khá ngoạn mục, thường được chạm khắc trên các
phù điêu bằng gỗ trong cung đình hay đắp nổi trong các chùa chiền. Một
môtýp trang trí cung đình và dân gian khác, gọi là "Mặt Rồng” hay "Con
Rồng ổ” có khi gọi là "Mặt nả”, là một công trình điêu khắc công phu
hình Đầu Rồng nhìn chính diện với hai chân trước uốn cong chạm trổ trên ô trán
mặt tiền hay mặt ngoài trên cửa ra vào của một số công trình kiến trúc cung
đình và dân gian. Môtýp này cũng thấy trên lườn nóc mái nhà, trên chân tủ, chân
quỳ sập gỗ. Thường
trên trán Con Rồng này có chạm chữ "Vương” cách điệu và miệng ngậm một
chữ "Thọ” mà người ta thường gọi là "Rồng ăn chữ thọ”, có ý nghĩa
cầu chúc trường thọ, mưa thuận gió hoà. Trong
nghệ thuật chơi cây kiểng dân gian, người ta đã uốn thế thân cây mẫu đơn, cây
cúc, cây lan... thành hình Con Rồng hoặc uốn thế thân cây xương rồng thành những
vòng xoắn lên cao dần như dáng rồng bay, gọi là Long Thăng. Người ta còn uốn thế
cho cây sung có hình đầu rồng, đuôi phượng khá đẹp, gọi là Phụng Vĩ Long Đầu. Con Rồng trong lễ hội dân gian Hàng
năm, ở mọi địa phương thường tổ chức các lễ hội dân gian hay lễ hội kỷ niệm
cách mạng bao giờ cũng cómúa rồng, múa lân. múa sư tử. Con Rồng trong
múa rồng có đầu khá lớn, mình dài lê thê trên thân vẽ hình vảy cá. Dưới sự điều
khiển linh hoạt của đội múa, Con Rồng nhào lộn, uốn lượn không ngơi theo tiếng
trống chiêng, tiếng hoan hô của đám đông, góp phần làm cho lễ hội thêm
tưng bừng, náo nhiệt. Ở
một số tỉnh miền nam, hàng năm thường tiến hành lễ hội Long Chu. Chẳng hạn như ở Thành
phố Di sản Thế giới Hội An, lễ hội dân gian này được tiến hành vào ngày rằm
tháng bảy âm lịch (Lễ Trung Thu) và cũng có thể tổ chức thêm vào ngày rằm tháng
giêng sau Tết Nguyên Đán (Lễ Nguyên Tiêu). Theo quan niệm dân gian, Long Chu, một chiếc thuyền có
hình dáng đầu rồng và đuôi rồng, là biểu tượng của một vật thiêng có sức mạnh của
thần linh, quyền lực khống chế trấn áp ma quỷ, thần ác gây ra ôn dịch, bệnh tật,
chết chóc cho con người. Lễ
hội Long Chu được tiến hành vào ban đêm, sau khi thầy pháp bắt quyết làm phép bắt
hết ma quái đem nhốt trênLong Chu làm
bằng tre và phết giấy bổi, xung quanh được trang trí các tua ngũ sắc, bên trên
có đặt bát hương và bánh trái, người ta khiêng Long Chu qua các đường phố chính của Hội An, dừng
lại ở một nơi vắng vẻ rồi châm lửa đốt cháy Long
Chu để diệt hết ma quỷ. Ở những
nơi gần sông, người ta thả Long
Chu xuống nước, đẩy nó ra xa
bờ cho dòng chảy, sóng nước đánh chìm để dìm chết hết ma quái. Con Rồng trong thành ngữ, ca dao dân gian Quan
niệm dân gian cho rằng Con Rồng là con vật cao quý, thông minh, khoẻ mạnh
còn con tôm là con vật nhỏ bé, thấp hèn, yếu đuối, nên đã có những thành ngữ và
ca dao dân gian sau đây: Rồng đến nhà tôm Thành
ngữ này ý nói người cao sang trong xã hội hạ cố đến thăm người thấp kém hơn
mình. Rồng vàng xuống tắm ao tù Người khôn ở với người
ngu bực mình Người khoẻ mạnh, tài giỏi được ví như Con Rồng: Ăn như rồng cuốn, nói như
rồng leo, làm như mèo mửa. Thành ngữ dân gian này có ý chê bai hạng người to
khoẻ, nói thì tài nhưng làm thì chẳng ra gì. Cũng từ đó có những câu ca dao dân
gian: Trong lưng chẳng có một đồng, Lời nói như rồng chẳng có
ai nghe! Quan
niệm dân gian cho rằng, người có tuổi Con Rồng tức tuổi Thìn thường là người có
tài, nếu không có địa vụ cao thì cũng có tiếng tăm trong xã hội, nên có thành
ngữ "mả táng hàm rồng” chỉ người có may mắn hồng phúc, "long vân
khánh hội”, người gặp được may mắn như hội rồng gặp mây. | |
Lượt xem: 606 | Đánh giá: 0.0/0 |
Tổng số bình luận: 0 | |